Tổng quan về cây mắc ca ở Việt Nam và trên thế giới

Tổng quan về cây mắc ca ở Việt Nam và trên thế giới.

I. Giới thiệu chung của Viện Eakmat.

Chi Macedonia gồm nhiều loài, nhưng nổi bật là Macadamia tetraphylla, và M. integrifolia. Thuộc Họ Proteaceae, hạt chứa dầu cho thương phẩm gần giống hạt Điều. Đây là cây lấy quả nổi tiếng và đang trở thành cây trồng được quốc tế hoá. Như cà phê, ca cao, cao su….

Mắc ca nguyên sản ở bang Queensland nước Úc. Người châu Âu đầu tiên di cư đến úc gọi cây này là Giẻ Queensland. Về sau được nhập về trồng ở Ha-oai tạo ra hàng xuất khẩu quy mô lớn. Trên thương trường sản phẩm này đã được mang tên mới là quả khô Ha-oai.

Để nông dân dễ tiếp thu, chúng tôi đề nghị đặt tên cho loài cây này là cây Mắc-ca. Cách gọi này bám sát tên khoa học, do đó ít gây khó khăn cho giao dịch quốc tế. Lại gần với cách gọi tên cây ở miền núi phía bắc nước ta.

Ha-oai trồng bằng cây ghép với các dòng đã tuyển chọn. Cây cho quả ở tuổi 3, bắt đầu sai quả ở tuổi 10, đến tuổi 12 sản lượng quả lại tăng gấp đôi so với tuổi 10.

Theo kết quả phân tích của Beckham và Miller năm 1965, thành phần dinh dưỡng trong nhân hạt Mắc-ca như sau:

  • Chất béo 78,2%.
  • Các hợp chất đường 10%.
  • Các hợp chất đạm(protein) 9,2%.
  • Hàm lượng nước 1,5-2,5 % (nhân đã được làm khô theo yêu cầu bảo quản lâu dài).
  • Kali 0,37%.
  • Phôt-pho 0,17%.
  • Ma-nhê 0,12%.

Ngoài ra trong mỗi kg nhân hạt Mắc-ca còn chứa Can-xi 360mgr, Lưu huỳnh 66 mgr. Sắt dễ tiêu 18 mgr, Kẽm 14 mgr, đồng 3,3 mgr, và một số loại Vitamin như Vitamin pp 16 mg. Vitamin B1 2,2 mg, Vitamin B2 2,2 mg. Các nghiên cứu sau này còn cho biết thêm: trong nhân Măc-ca còn chứa một lượng Vitamin E rất lớn: 6,4 – 18 g/kg nhân.

Điều đặc biệt là hàm lượng acid béo không no trong dầu Măc-ca lên tới 84% chỉ đứng sau dầu Sở (97%). Đây là thứ chất béo mà thế giới hiện đại rất coi trọng. Vì ít dẫn tới nguy cơ tích tụ colesteron trong cơ thể người. Và rất phù hợp với nhu cầu làm dung môi trong mỹ phẩm.

Thành phần dinh dưỡng trong nhân:

Nhân Măc-ca không những béo ngậy, với 9% protein 10% hợp chất đường. Nhân Mắc-ca còn có vị ngọt và rất bùi và thoang thoảng mùi thơm của bơ sữa bò rất hấp dẫn.

Nhân Mắc-ca ròn mà không cứng như hạt điều hay nhân lạc. Dùng ăn sống, luộc rang hoặc xào nấu với đồ mặn đều rất ngon. Độn vào kem cốc, kẹo Sô cô-la, bánh ga-tô. Và nhiều loại đồ ngọt khác đều làm cho các đồ ăn này tăng hẳn giá trị.

Chúng tôi cho rằng hoàn toàn có thể dùng nhân Măc-ca để thổi xôi, nấu chè. Làm nhân bánh dẻo, bánh nướng và rất nhiều món ăn cổ truyền dân tộc khác của Việt Nam. Tạo thêm sức hấp dẫn cho các món văn hoá ẩm thúc truyền thống của ta.

Trên thế giới, Mắc ca đã được đưa lên bàn ăn của các gia đình giầu có hoặc yến tiệc sang trọng.

Giá sản phẩm:

Do hương vị nhân và giá cả Măc-ca rất hấp dẫn. Nên hàng chục nước đã đua nhau phát triển Măc-ca trong mấy chục năm qua. Nhưng người ta dự báo rằng còn lâu cung mới đuổi kịp cầu. Giá cả Mắc-ca trên thị trường thế giới vẫn không ngừng tăng. Và là hàng nông sản đắt giá nhất trên thị trường thế giới hiện nay.

  • Năm 1960, giá thu mua hạt Măc-ca ở Ha-oai là 0,395 USD/kg.
  • Năm 1980 – 1,540 USD/kg.
  • Năm 1986 – 1,860 USD/kg.

Theo thống kê năm 1997.

Tổng diện tích cây Mắc-ca trên toàn thế giới đạt 46.000 Ha. Sản lượng nhân đạt 61.000 tấn, phân bố chủ yếu tại 7 nước sau đây:

  • Australia 9.020 Ha sản lượng 26.000 tấn.
  • Mỹ 8.215 Ha sản lượng 24.500 tấn.
  • Bra-xin 6.300 Ha 1.000 tấn.
  • Kê-nia 6.050 Ha 4.400 tấn.
  • Côt sta-rica 6.000 Ha 3.100 tấn.
  • Nam Phi 4.500 Ha 3.920 tấn.
  • Gua tê mala 3.200 Ha 2.300 tấn.

Thống kê chi tiết:

Đứng đầu diện tích và sản lượng vẫn là úc và Mỹ. 5 nước sau sản lượng chưa cao do mới trồng hoặc khí hậu không thích hợp. Một số nước khác cũng đã bắt đầu trồng thử. Như Mê-xi cô, Vênêduyê-la, Dimbabuê , Tanzania , Eti-ô-pia , Mali , Niu-zêlan.

Tại Trung Quốc, cây Mắc ca đã có mặt ở vườn thực vật Đài loan từ đầu thế kỷ 20. Nhưng việc trồng đại trà mới thực hiện trong khoảng 20 năm gần đây.

Nhân Mắc-ca của Úc trước đây chủ yếu được xuất vào thị trường Mỹ và Canada. Nay Châu Âu và châu á đang trở thành thị trường tiêu thụ lớn hơn.

Giá cả quốc tế vài năm gần đây giao động trong khoảng 12 – 15 USD/Kg nhân.

Vì vậy, cây Măc-ca xứng đáng là sự lựa chọn cây trồng cho xoá đói giảm nghèo. Nhưng nỗi kinh hoàng sau trận suy sụp giá cà phê đòi hỏi phải có phân tích kỹ lưỡng. Và dự báo nghiêm túc trước khi hạ quyết tâm cho lựa chọn này. Sau đây là những điều đã có thể thấy rõ.

Những vấn đề cần biết:

Cơ hội và thách thức”

Khi Việt nam gia nhập thị trường Cà phê thế giới thì diện tích và sản lượng cà phê đã ở số triệu. Cân bằng cung cầu về cơ bản đã được xác lập. Việt Nam bước vào cuộc đua quá muộn.

Và trong thời gian cực ngắn khoảng 15 năm đã tạo nên đột phá lớn, đưa diện tích tăng thêm 0,5 triệu Ha. Và trở thành quốc gia có năng suất sinh học và năng suất đồng ruộng đứng đầu thế giới.

Tình hình đặt ra với cây Mắc-ca hoàn toàn khác hẳn. Diện tích và sản lượng Măc-ca hiện nay mới ở mức vạn. Tính hấp dẫn và đặc điểm sử dụng nhân Măc-ca cho phép nâng diện tích và sản lượng. Lên gấp bội cây cà phê. Hay gấp hàng trăm lần diện tích và sản lượng Mắc-ca hiện nay mới đủ làm bão hoà thị trường.

Tuy chậm chân mất vài chục năm. Nhưng về cơ bản vẫn có thể coi như Việt Nam bước vào cuộc đua từ điểm xuất phát. Sẽ không phải là kẻ đến sau gây đảo lộn thị trường như trường hợp cây cà phê. Mà sẽ là tham gia từ đầu quá trình hình thành cung cầu.

Việt Nam có nhiều tiểu vùng khí hậu với diện tích lớn. Đáp ứng được yêu cầu này mà các nước khác trong cuộc đua không có. Nếu quyết tâm khai thác được thành tựu chọn giống và kinh nghiệm kỹ thuật. Của Úc, Mỹ, Trung Quốc và các nước khác thì ưu thế về tài nguyên khí hậu và con người. Sẽ cho phép Việt Nam tạo được bước đột phá thứ hai sau cây cà phê.

Nhu cầu:

Nhu cầu về nhân Măc-ca trên thị trường thế giới sẽ lớn hơn cà phê rất nhiều. Cách dùng cà phê khá nghèo nàn, chủ yếu là làm đồ uống. Một phần nhỏ pha vào rượu và kẹo bánh;

Nhưng ngay cả với người nghiện cà phê thì nhu cầu hàng ngày cũng không thể quá nhiều. Trong khi đó thì đối tượng sử dụng Mắc ca lại rất rộng lớn bao gồm mọi tuổi tác, giới tính, sắc tộc, truyền thống ẩm thực, sức khỏe….

Với nhân Mắc-ca, tình hình hoàn toàn không giống Cà phê. Thậm chí cũng không giống với Ca cao. Các đặc điểm ròn, bùi, thơm, ngậy hấp dẫn mọi lứa tuổi.

Cách ăn và chế biến rất phong phú từ ăn sống hoặc trộn trong sà lát, sào, nấu, làm nhân bánh, kem, mứt… Cho phép Mắc-ca vượt qua mọi ranh giới sắc tộc,tôn giáo. Truyền thống ẩm thực để đến với mọi người trên thế giới. Vì là đồ ăn nên lượng tiêu dùng hàng ngày của mỗi người lớn hơn Cà phê, Ca cao rất nhiều.

Ưu thế:

Việt Nam (chủ yếu là phía bắc và tuyến giáp ranh giữa đông và tây Trường Sơn). Có thể là có nhiều ưu thế trong việc tìm nơi trồng thích hợp và đạt sản lượng cao cho cây Mắc-ca. Mỹ, úc và nhiều nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về cây Mắc-ca.

Sau đây là những tổng kết và so sánh chủ yếu.

Nguyên sản Mắc-ca là vùng á nhiệt đới ẩm tại duyên hải phía đông Queensland . Loài Mắc-ca vỏ hạt láng (Macadamia integrifolia) phân bố từ 25-28 0 vĩ tuyến nam. Loài mắc-ca vỏ hạt nhám (M. tetraphylla) phân bố xa hơn. Xuống phía nam tới vùng bắc Niu-Sao-wên 28-29 0 vĩ tuyến nam.

Hầu hết các giống Mắc-ca đều ngừng quang hợp ở 38 0 C. Ra hoa kết quả là vấn đề then chốt quyết định sản lượng. Các nước đã tập trung nghiên cứu rất nhiều. Trước hết là sự hình thành chồi hoa. Ở bắc bán cầu sự phân hoá để hình thành chồi hoa diễn ra trong tháng 10 và nở hoa vào cuối tháng 2 đến đầu tháng 4.

Nếu trồng Mắcca ở bắc Việt Nam thì triển vọng có thể khá hơn nam Trung Quốc. Mùa hoa nở và sau hoa nở (tháng 3,4) gặp nắng hạn sẽ gây rụng hoa nghiêm trọng. Cây Mắc-ca ra rất nhiều hoa, mỗi bông đuôi sóc có từ 100-300 hoa. Nhưng tỷ lệ đậu quả lại chỉ đạt 0,1 – 0,3%. Khí hậu không thuận lợi có thể hoàn toàn không đậu quả.

II. Về đất đai.

Mắc-ca ưa đất thịt nhẹ đến trung bình, thời han úng ngập không quá 10 ngày. Đất ẩm đều quanh năm, tầng đất sâu trên 1m hơi chua. Nếu giàu hữu cơ thì đỡ phải bón nhiều phân.

Mắc-ca không ưa đất kiềm, đất phèn mặn, đất đá vôi, đất mắc ga lít. Đất đá ong hoá hoặc thoái hoá nghiêm trọng… Như vậy Bắc bộ có triển vọng sẽ có diện tích rất rộng lớn để trồng cây Mắcca.

Ngoài ra, miền núi Thanh Hoá, Nghệ An tần suất bão không cao. Nếu mất 1 vụ mà trúng 2 vụ thì vẫn có thể gây trồng Mắc-ca. Vùng núi cao giáp ranh giữa Tây và Đông Trường Sơn. Nơi được đón mưa Tây Trường Sơn rất sớm đồng thời lại được hưởng mưa muộn của Đông Trường Sơn. Như Khe Xanh, An Khê, vùng giáp ranh giữa Bảo Lộc và Tánh Linh …

Cũng có thể là vùng phù hợp với phát triển của cây Mắc-ca. Tất cả những phân tích trên cho phép đi đến dự báo là miền núi phía bắc Việt Nam. Vừa có thể có nhiều đất trồng được cây Mắc-ca, vừa có thể tạo nên những đỉnh cao về năng suất.

Chúng ta có thể tính đến chuyện phát triển Mắc-ca thành một ngành sản xuất hàng hoá có quy mô tương đối lớn. Diện tích có triển vọng phát triển cây Mắc- ca có thể đạt tới cả triệu Ha.

Sau đây là phác thảo mức đầu tư để gây trồng và chăm sóc cho 1 Ha Mắc –ca cao sản:

Mật độ: 307 cây/Ha (5 m x 6.5 m để tiến tới hình thành ruộng bậc thang).

Cây giống: 307 cây x 20.000 VNĐ = 3.140.000VNĐ (đơn giá nhập sẽ không ít hơn 2 USD một cây ghép). Sau này tự sản xuất có triển vọng sẽ thấp hơn 20.000VNĐ/cây.

Đào hố: 307 cây x 10.000 VNĐ = 3,07 triệu VNĐ (kích thước hố 1 m x 1 m x 1 m ).

Phân bón: 307 x 6000 VNĐ = 1.842.000 VNĐ (gồm 3000VNĐ cho phân chuồng và phân khoáng. 3000 VNĐ cho 50 dm 3 than bùn đã chế biến).

Công trồng: 307 x 2000 VNĐ = 0.614 triệu (bao gồm lấp hố đúng yêu cầu kỹ thuật).

Chăm sóc: 5 năm x 2.000.000 VNĐ = 10.000.000 VNĐ (bao gồm làm sạch cỏ và từng bước hình thành ruộng bậc thang).

Cộng: Tổng đầu tư cho 1 Ha là 18.666.000 VNĐ/Ha. Trồng Mắc-ca với cây ghép hoặc nhân hom sẽ cho quả vào tuổi 3 có thu nhập từ tuổi 5, cao sản từ tuổi 10 – 12 trở đi. Sau này sẽ không thể chi phí ít hơn 2.000.000 VNĐ hàng năm cho làm cỏ, bón thúc, tưới nước, thu nhặt và hong phơi hạt. Giai đoạn này có thể lấy thu bù chi.

Khâu thu hoạch có mấy khó khăn chính như sau:

• Phải thu nhặt hạt hàng ngày để giảm tổn thất do chuột, sóc.

• Phải làm sạch cây bụi cỏ dại để không bị bỏ sót hạt rụng.

• Mùa thu lượm trùng với mùa thu hoạch nông nghiệp nên thiếu nhân công.

III. Phân loại và giới thiệu các dòng vô tính đã được gây trồng.

1. Phân loại :

Chi Macadamia có 18 loài, trong đó 10 loài nguyên sản tại Úc. 6 loài tại Tân Cri-đo-nia, 1 loài tại Ma-đa-gas-ca, 1 loài tại đảo Xi-ri-bô. Trong 18 loài trên chỉ có 2 loài đã được gây trồng trên quy mô thương mại là:

  • Macadamia integrifolia – Mắc ca vỏ hạt láng hay mắc-ca lá nguyên.
  • Macadamia tetraphylla- Mắc ca vỏ hạt nhám hay mắc-ca mép lá răng cưa.

Các loài mắc-ca còn lại có nhân nhỏ, vị đắng. Ít nhiều chứa độc tố nên chưa được gây trồng nhiều. Nếu gộp các loài đã được gây trồng, có triển vọng hoặc có giá trị làm cây cảnh thì có thể kể tới 5 loài sau đây :

1.1. Macadamia integrifolia Maiden – Betche. Tạm dịch là mắc-ca vỏ láng hoặc mắc-ca lá nhẵn.

Phân bố tự nhiên tại vùng rừng mưa phía đông đường phân thủy giữa nội địa úc với bờ biển đông úc. Chủ yếu là trên lãnh thổ bang Quensland và một phần bang Newsouth wales. Trong khoảng 25 – 28 o vĩ độ nam. Vùng phân bố tập trung nhất là dãy núi Mepherson mà một bên là sông Nunaibah. Và bên kia là sông Mary ở phía bắc trên giải rộng 24km, dài 442km.

Loài này cao tới 18m, tán rộng 15m, vỏ cành nhạt màu hơn loài M.ternifolia (mắc-ca 3 lá). Lá non màu xanh nhạt, lá hình trứng ngược hoặc thuôn ngược. Lá dài 10,2 – 30,5cm, rộng 2,5 – 7,6cm, có cuống lá ngắn. Không có hoặc gần như không có răng cưa, đuôi lá tròn, 3 lá hoặc 4 lá mọc xoáy ốc.

Nhưng ở cây con hoặc cành non có thể gặp 1 đôi lá mọc đối. Hoa tự thường mọc ra từ cành già, thường là mọc từ mắt lá sớm thành thục nhất ở đoạn cuối cành (phía ngọn). Hoa tự thường dài 10,2 – 30,5cm; mỗi hoa tự có từ 100 – 300 bông hoa (Hoa màu trắng).

Quả chín rộ vào tháng 3 đến tháng 6 ở úc (mùa thu đông nam bán cầu). Và từ tháng 7 đến tháng 11 ở Hawaii. Nhưng ở California quả chín từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau.

1.2. Macadamia tetraphylla L.A.S Johnoson, có thể gọi là mắc-ca 4 lá, mắc-ca hạt nhám hoặc mắc-ca lá răng cưa, mắc-ca lá gai.

Nguyên sản tại vùng rừng mưa nhiệt đới phía đông đường phân thuỷ của châu úc. Trong khoảng 28 – 29 o vĩ tuyến nam, chủ yếu là trên dải đất dài 120km. Từ bờ nam sông Coomera và sông Nerang. Thuộc Quensland đến bờ bắc sông Richmont thuộc New south Wales.

Cây cao khoảng 15m nhưng tán xoè rộng tới 18m, vỏ cành nhỏ xẫm màu hơn mắc-ca vỏ láng. Nhưng hơi nhạt màu hơn mắc-ca 3 lá (M.ternifolia). Lá non màu đỏ hoặc màu hồng phai, đôi khi có màu xanh nõn chuối.

Lá hình thuôn ngược dài 10,2 – 15,8cm, rộng 2,5 – 7,6cm, gần như không có cuống lá. Mép lá có răng cưa nhọn như gai, đuôi lá nhọn, 4 lá mọc cách xoáy ốc. Đôi khi có 3 lá hoặc 5 lá mọc xoáy. Cây mầm cũng có 2 lá mọc đối.

Hoa tự mọc ra từ cành già, nhỏ và cũng mọc ở mắt sớm thành thục phía cuối đoạn cành. Hoa tự dài 15,2 – 20,3cm, có từ 100 – 300 bông hoa. Hoa màu hồng phai rất tươi màu, nhưng cũng có cây cá biệt có hoa màu trắng sữa.

Mùa quả chín rộ ở úc từ tháng 3 đến tháng 6. Tại Hawaii từ tháng 7 đến tháng 10, tại California từ tháng 9 đến tháng 1 năm.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Tư vấn khách hàng: 📲
Gọi mua hàng: 0907 984 646
Tư vấn khách hàng
Gọi mua hàng