Kỹ thuật chăm sóc cây sầu riêng

Viện Eakmat tây nguyên cung cấp các giống sầu riêng được ưa chuộng, đạt năng suất cao và sản lượng tốt cho bà con nông dân.

Cây sầu riêng viện eakmat là loại cây ăn quả nhiệt đới được ưa chuộng, trồng phổ biến ở Việt Nam và một số nước Đông Nam Á. Tài liệu nước ngoài ca ngợi cây sầu riêng là vua của cây ăn quả nhiệt đới (King of tropical fruit). Tuy nhiên không phải bất cứ người nào cũng muốn nếm thử hương vị loại quả này ngay lần đầu tiếp xúc.

Ở Việt nam sầu riêng được trồng chủ yếu ở phía Nam. Sầu riêng cũng được trồng thử nghiệm ở Quãng Trị, Huế nơi có vĩ độ Bắc khá cao (16-17oB) và đã cho quả. Tuy nhiên, nhìn chung cây có sinh trưởng và năng suất không bằng so với Đông Nam bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng Sông Cửu long (ĐBSCL). Diện tích trồng sầu riêng ở Việt Nam hiện nay ước tính khoảng 5.000 ha. Trồng tập trung nhất là ở ĐBSCL. Miền Đông Nam bộ và Tây nguyên có diện tích trồng đang gia tăng nhanh chóng.

ĐẶC TÍNH THỰC VẬT

Trong tự nhiên cây sầu riêng có thể đạt độ cao 27-40 m; thân mọc thẳng, vỏ thô ráp với đường kính lên đến 1,2m. Trong sản xuất, chiều cao cây thấp hơn (10-12 m). Tán to phía dưới và nhỏ dần lên phần ngọn. Nhánh mọc hơi ngang nhất là lúc mang quả nặng. Ngọn non có màu đồng với các vảy nhỏ bao phủ khi còn non. Lá thường xanh rụng lá thay phiên.

Lá có phần phía cuống hơi nhọn đến gần tròn nhưng nhọn phía chót lá. Lá đơn hơi rũ; mặt trên màu xanh đậm, phẳng và bóng láng; mặt dưới màu nâu nhạt óng ánh làm cho cây có một dáng vẻ hấp dẫn, rực rỡ và sinh động.

Hoa có mùi hương rất mạnh; cuống hoa đính thành từng chùm treo trên cành. Cần một giai đoạn từ 3-4 tuần thời tiết khô để kích thích ra hoa. Mất khoảng 1 tháng cho hoa phát triển từ mới nhú đến nở hoa. Khi trưởng thành nứt ra để lộ 5 đài hoa liên kết với nhau và 5 cánh hoa mà có màu trùng hợp với thịt quả. Hoa thuộc loại lưỡng tính, nhị đực và nhụy cái trong cùng một hoa. Tự thụ phấn hiếm khi xảy ra bởi khi hoa nở (thường từ 15 giờ đến nửa đêm) nhụy cái và nhị đực không nở cùng một lúc. Thông thường phải được thụ phấn chéo để đậu quả. Tuy nhiên có một vài giống có khả năng tự tương hợp cao.

Mặc dù hoa hấp dẫn nhiều côn trùng; như ong, bướm, muỗi và kiến; cấu trúc hoa sầu riêng là đặc trưng cho kiểu thụ phấn nhờ dơi. Bướm đêm và dơi nhỏ (chủ yếu Eoncyteris spelea) được xem là những động vật thụ phấn quan trọng nhất ở Đông Nam Á. Ong mật cũng đến hoa nhưng thường quá sớm (trước khi hạt phấn sẳn sàng).

Quả có áo hạt là phần ăn được (thịt quả), bắt đầu hình thành từ 4 tuần sau khi hoa thụ phấn. Lúc bắt đầu như một lớp mỏng màu trắng sau đó mở rộng bao phủ toàn bộ hạt. Thịt quả thay đổi rất lớn giữa các giống. Chất lượng thịt quả thường tăng theo tuổi cây nhưng có thể quả sẽ nhỏ hơn.

YÊU CẦU SINH THÁI

-Cao độ

– Cây sầu riêng không đòi hỏi khắc khe về cao độ. Tại Thái Lan trồng cây sầu riêng ở cao độ 30-300m so với mặt nước biển, tại Malaysia trồng sầu riêng ở độ cao 800m so với mặt nước biển, tại Việt nam vùng Di Linh, Đức Trọng Lâm Đồng có độ cao trên 1000m so với mặt nước biển cây sầu riêng vẫn phát triển tốt nhưng trái có chậm hơn vùng đồng bằng khoảng 2 tháng.

-Vũ lượng

– Một lượng mưa phân bố đều từ 1.500-2.000mm/năm là thích hợp. Cây sầu riêng cần nhiều nước nên lượng mưa phải cao và đặc biệt phải phân bố đều trong năm, mùa khô không quá 3 tháng, tuy nhiên ở tỉnh Chantaburi Thái Lan có lượng mưa 3000mm/năm chỉ phân bố trong 6 tháng nhưng vẫn có khả năng trồng được cây sầu riêng, nhưng cần có sự hỗ trợ thêm của các biện pháp canh tác như tưới nước vào mùa khô… nhìn chung lượng mưa 2000mm/năm và phân bố đều trong năm và không mưa khi trái già, chín là thích hợp nhất. Bởi khi trái bước vào giai đoạn già, chín nếu mưa nhiều sẽ làm nhão cơm.

-Đất trồng

– Cây sầu riêng chụi phèn và mặn kém, đất có pH từ 5-6, chứa nhiều chất hữu cơ và thoát nước tốt là thích hợp nhất. Trường hợp tại Chantaburi Thái Lan là đất cát mùn giàu hữu cơ, trái ngược với những vườn sầu riêng ở tỉnh Epoh Mã lai là loại đất nặng lầy khi ẩm ướt và khô nứt vào mùa nắng hạn vẫn phát triển được cây sầu riêng, tuy nhiên cần phải có biện pháp kỹ thuật để phòng ngừa nấmphytophthora spp, đây là loại nấm gây xì mủ thân có thể làm chết cây, nấm gây bệnh trên lá làm cháy và rụng lá, bệnh sẽ làm thối trái nếu không có biện pháp kỹ thuật để phòng trị kịp thời. Tuy nhiên vẫn là đất thịt thoát nước tốt và gần nguồn nước tưới.

– Tại Việt Nam, sầu riêng được trồng nhiều tại Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu… trên nền đất phù sa(ĐBSCL), đất đỏ bazan, đất xám giàu hữu cơ, đất phù sa ven sông(Đông Nam bô).

4. GIỐNG VÀ KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG

Trước đây một số nhà vườn trồng sầu riêng bằng hạt, so sự hiểu biết về cây sầu riêng chưa nhiều. Đến nay, việc trồng sầu riêng bằng hạt không còn nữa bởi sầu riêng là cây thụ phấn chéo bắt buộc, do đó sự phân ly ở thế hệ sau là rất lớn, nếu nói riêng về chất lượng trái thì vườn sầu riêng trồng bằng hạt có chất lượng không đồng nhất mà chất lượng kém hơn cây mẹ nhiều. Hiện nay, chỉ khuyến cáo trồng sầu riêng bằng cây được nhân giống vô tính từ những giống tốt được tuyển chọn như: Sữa hạt lép Bến Tre, Ri6, Monthong,…… Sau đây là cách nhân giống sầu riêng đang được áp dụng trong sản xuất hiện nay:

-Phương pháp chiết cành:

– Đây là phương pháp nhân giống vô tính tạo ra cây con không phân ly tính trạng so với cây mẹ. Mặc dù cây sầu riêng trồng từ cành chiết vẫn có rễ đâm sâu vào lòng đất thay rễ cọc nhưng vẫn không làm hết nhiệm vụ của rễ cọc đối với cây. Việc nhân giống bằng chiết cành có nhiều bất lợi: tốn hao nhiều cành giống, vận chuyển khó khăn…..

-Phương pháp tháp cành

– Đây là phương pháp nhân giống vô tính có ưu điểm hơn chiết cành, bởi vì bộ rễ của cây con là bộ rễ của cây trồng từ hạt, cây con phát triển tốt, hệ số nhân giống cao.

-Phương pháp tháp mắt:

– Đây là một phương pháp tốt nhất để nhân giống cây sầu riêng, nhưng nhược điểm của phương pháp này là hệ số nhân giống thấp.

KỸ THUẬT TRỒNG

-Khoảng cách trồng

– Sầu riêng là cây thân gỗ cao to, ưa sáng do đó phải trồng thưa để vườn được thông thoáng, cây khoẻ mạnh, có thể trồng với khoảng cách 8 – 12m/cây, mật độ 120 cây/ha. Trong vườn nên trồng từ 3-4 giống, trong đó giống chủ lực chiếm 50%, các giống còn lại thì bố trí theo hàng( 1 hàng giống chủ lựa và 1 hàng giống khác).

-Chuẩn bị đất trồng

– Tùy địa hình và điều kiện riêng của từng vùng mà có cách chuẩn bị đất trồng khác nhau: đào hố hoặc đấp ụ để trồng. Tuy nhiên nếu có điều kiện nên chuẩn bị theo thể thức đấp ụ trên đất có địa hình cao cũng như địa hình thấp, làm như vậy có nhiều lợi điểm: đất không bị ngập úng cục bộ và có lợi cho việc làm cây ra hoa sớm sau này… Nếu chuẩn bị đất trồng bằng cách đấp ụ vẫn phải đào hố trên ụ đã đấp. Hố trồng có thể đào với khoảng cách 0,6 x 0,6 x 0,6m, vật liệu cho vào hố trồng phải tơi xốp giàu dinh dưỡng có thể là hổn hợp theo tỷ lệ 1 phân chuồng hoai kết hợp với 1 đất giàu dinh dưỡng và 50gr N:P:K 16:16:8 hoặc 20:20:15/hố. Nếu trồng theo kiểu đấp ụ cần chú ý bồi ụ để tránh sạt lở ảnh hưởng không tốt đến cây. Trên vùng đất có địa hình thấp, nên xẻ liếp, mương để giúp thoát nước tốt, nâng cao tầng canh tác.

-Trồng cây chắn gió

– Sầu riêng là cây cao to nhưng gỗ dòn dễ gãy, do đó nên chọn cây có độ cao hợp lý, khó đổ ngã và chắc gỗ để trồng xung quang vườn làm cây chắn gió cho sầu riêng.

-Đặt cây con

– Sau khi chuẩn bị hố trồng 7-10 ngày tiến hành đặt cây con vào hố trồng. Nếu trồng bằng cây ghép mắt nên xoay mắt ghép về hướng gió chính trong năm. Sau trồng nên lấp đất ngang mặt bầu cây con, che bóng và tưới nước ngay.

-Che bóng cho cây con còn nhỏ

– Sau khi trồng cần che bớt ánh sáng mặt trời trực tiếp cho cây và không nên che quá 50% ánh sáng mặt trời.

-Trồng xen che phủ đất

– Do cây sầu riêng trồng xa nhau, trong những năm đầu cần dùng cây ngắn ngày làm cây trồng xen trên vườn sầu riêng nhằm tăng thu nhập tránh lãng phí và bảo vệ mặt đất…… Nhưng không nên trồng các cây: đu đủ, ca cao trên vườn sầu riêng vì các cây này cùng là ký chủ của nấm phytophthora spp, đây là loại nấm gây bệnh thối gốc chảy nhựa, thối rễ, thối trái…. Trong những năm đầu mặt đất chịu ảnh hưởng trực tiếp của mưa nắng, do đó phải trồng cây che phủ bảo vệ đất và tạo vùng tiểu khí hậu thích hợp cho cây sầu riêng phát triển, có thể áp dụng các loại cỏ cải tạo đất để vừa che phủ mặt đất vừa tạo vùng tiểu khí hậu cho cây sầu riêng và cung cấp thêm dinh dưỡng cho đất.

-Tỉa cành tạo tán

Phải tỉa cành cho cây sầu riêng ngay sau thu hoạch xong. Các cành cần tỉa bỏ:

+ cành mọc đứng, cành bên trong tán

+ Cành ốm yếu

+ Cành bị sâu bệnh

+ Cành mọc quá gần mặt đất

Giữ lại các cành:

+ Cành mọc ngang

+ Cành khoẻ mạnh

+ Cành ở độ cao hợp lý

Nói chung công tác tỉa cành cần tiến hành sớm để khỏi lãng phí dinh dưỡng, cây có tán cân đối và khi cây lớn cành mang trái cách mặt đất thấp nhất 1m. Khi cây lớn phải tỉa bỏ tất cả các cành bên trong tán, đảm bảo tán cây thông thoáng, sạch sâu bệnh. Ngoài ra chúng ta còn có thể tỉa ngắn lại cành bên ngoài tán cây giúp vườn thông thoáng và cây nhận nhiều ánh sáng giúp cây khoẻ mạnh, trái có chất lượng cao, chúng ta cũng có thể cắt ngọn hạ thấp chiều cao để dễ dàng trong việc chăm sóc và giảm bớt thiệt hại do gió bão….

5.8. Tỉa hoa, tỉa bớt trái trên cây

– Sầu riêng là loại cây cho nhiều hoa, số lượng hoa cao gấp nhiều lần số lượng trái cần có trên cây, do đó phải tỉa bớt hoa, chỉ giữ lại từng khóm hoa xa nhau trên cành. Khi đậu trái cần tỉa bỏ những trái: mọc dày đặc, trái méo mó, trái bị hại do sâu bệnh….. Số trái giữ lại trên cây tuỳ thuộc vào sức khoẻ của cây, đối với cây có đường kính tán từ 8-10m và mạnh khoẻ chỉ giữ lại tối đa khoảng 80-100 trái/cây, có như vậy cây mới đầy đủ dinh dưỡng nuôi trái phát triển hoàn toàn, chất lượng cao.

-Tưới nước

-Tưới nước cho cây sầu riêng là điều cần thiết, bởi vì nước là môi trường bắt buộc phải có để các phản ứng sinh hoá xảy ra.

– Giai đoạn cây con: tưới nước để giảm tỷ lệ cây chết, giúp cây mạnh khoẻ nhanh cho trái.

– Giai đoạn cho trái: khi cây sầu riêng ra hoa cần tưới nước cách ngày, giúp hoa phát triển nhanh khoẻ, đậu trái tốt.

-Phân bón

Giai đoạn cây con và những năm đầu cho trái:

Bón 10-20kg phân hữu cơ/gốc kết hợp với phân vô cơ theo công thức theo liều lượng và số lần bón như sau:

Bảng 1: Liều lượng và số lần bón phân theo tuổi cây:

Tuổi cây

Liều lượng (kg/cây/năm)

Số lần bón trong năm

1

0,3

4

2

0,6

4

3

1,0

3

4

2,0

3

5

2,5

3

6

4,0

3

7

5,0

3

8

5,0

3

9

6,0

3

Giai đoạn cây cho trái bón phân như sau:

Lần 1:

– Ngay sau thu hoạch xong cần tỉa cành và bón phân chuồng hoai 20-30kg/cây và phân vô cơ có hàm lượng đạm cao theo công thức M:P:K:Mg 18:11:5:3 hoặc 15:15:6:4 bằng phương pháp rãi 1m ở bìa tán và tưới nước ngay sau bón để giúp cây nhanh hấp thu phân bón, nhằm tạo bộ lá xum xuê khoẻ mạnh trong thời gian ngắn nhất.

 

Lần 2:

-Trước khi ra hoa 30-40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao theo công thức N:P:K = 10:50:17 để giúp quá trình ra hoa dễ dàng.

Lần 3:

-Khi trái sầu riêng to bằng trái chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao để giúp trái phát triển nhanh và chất lượng cao, theo công thức N:P:K:Mg = 12:12:17:2.

Lần 4:

-Vào khoảng một tháng trước khi thu hoạch cần bón kali dạng nhằm nâng cao chất lượng trái. Nhìn chung đối với cây có đường kính tán 6-8 đang phát triển bình thường có thể bón 3-4 kg/cây/lần và 1-1,5kg K2SO4 ­ tức 10-13,5kg/cây/năm.

– Ngoài ra còn có thể sử dụng phân bón lá có hàm lượng kali cao để góp phần nâng cao phẩm chất trái. Có thể phun bón lá làm 5 lần mỗi lần cách nhau một tuần bắt đầu từ tuần thứ 5 sau đậu trái, vào thời gian này tránh phun phân bón lá có hàm lượng đạm cao kích thích cây ra lá mới cạnh tránh dinh dưỡng với trái đang phát triển, làm giảm phẩm chất trái: cơm trái bị sượng, bị nhão….

* Lưu ý:

Tuyệt đối không dùng Clo hoặc phân có Clo để bón cho sầu riêng, vì chính Clo sẽ làm giảm phẩm chất trái khi lượng Clo trong đất trong cây đạt đến ngưỡng gây hại.

Phân bón lá là phụ thêm với phân bón gốc để tăng kích thước và phẩm chất trái, không nên chỉ sử dụng phân bón lá như trên để thay thế phân bón gốc.

-Thụ phấn nhân tạo

– Nên giúp cây thụ phấn bằng tay vào lúc 21-22 giờ để quá trình thụ phấn diễn ra đầy đủ trên bầu nhụy nhằm tạo ra trái sầu riêng đầy đặn không bị lép do thụ phấn không hoàn toàn.

– Thụ phấn bằng tay có thể tiến hành như sau: thu nhị của giống cần lấy hạt phấn cho vào lọ đến lúc nhị tung phấn dùng cọ mịn phết nhẹ vào bao phấn để hạt phấn dính vào cọ và dùng cọ này phết thật nhẹ trên nuốm nhụy của giống cần thụ phấn bổ sung để truyền hạt phấn đến nuốm nhụy giúp quá trình thụ phấn diễn ra dễ dàng. Các kết quả nghiên cứu cho thấy: Thụ phấn bổ sung cho giô(ng sầu riêng sữa hạt lép Bến Tre bằng phấn của sầu riêng Monthong là cho kết quả tốt nhất.

-Xử lý ra hoa cho trái sớm

Có thể cho cây sầu riêng ra hoa kết trái sớm hơn chính vụ bằng cách:

-Vừa khi thu hoạch xong tiến hành tỉa bỏ cành bên trong tán, cành bị sâu bệnh…. Giúp tán cây thông thoáng sạch sâu bệnh, sau đó tiến hành bón phân với hàm lượng đạm cao theo công thức M:P:K:Mg = 18:11:5:3 và tưới nước đều đặn để cây đâm chồi nhanh, sớm tạo bộ lá xum xuê khoẻ mạnh. Khi đọt non chuyển sang thành thục thì tiến hành tạo khô hạn, ngăn chặn không cho nước đến vùng rễ hút nước và chất dinh dưỡng chủ yếu của cây. Cũng vào lúc này tiến hành quét dọn lá cây và cỏ khô ra khỏi tán cây, giúp đất vùng tán cây khô nhanh, các nhà vườn ở ĐBSCL dùng biện pháp phủ nylon trên mặt liếp kết hợp rút hết nước rong mương ra để tạo khô hạn và phun bổ sung KNO3 ( 150g/10 lít nước) để tăng hiệu quả ra hoa. Tại Thái Lan khi cây sầu riêng khoẻ mạnh gặp khô hạn 5-10 ngày thì ra hoa. Khi cây đã ra đủ số hoa theo ý muốn thì tiến hành tưới nước cách ngày để hoa phát triển, đậu trái tốt.

SÂU BỆNH HẠI TRÊN CÂY SẦU RIÊNG

-Sâu và dịch hại trên sầu riêng

-Rầy phấn: Allocaridara malayensis

Đây là côn trùng gây hại rất quan trọng và phổ biến trên sầu riêng. Ở giai đoạn ấu trùng và trưởng thành, rầy gây hại bằng cách chích hút lá non và đọt non, làm cho lá không phát triển, bị biến dạng, cháy mép lá dần dần khô và rụng. Đọt non có thể bị khô và chết, trơ cành mà có thể nhầm với triệu chứng do bệnh. Vết chích do rầy gây ra có thể tạo điều kiện cho nấm bệnh xâm nhập gây hại.

Con trưởng thành dài khoảng 2,5-3,0 mm, cánh trong suốt, toàn thân màu vàng nhạt. Trứng được đẻ thành từng đám trên lá non trong mô lá. Khi mới đẻ trứng có màu vàng, dần chuyển sang màu nâu. Ấu trùng bên ngoài phủ lớp sáp mỏng và các tua sáp kéo dài ở cuối thân. Trưởng thành và ấu trùng tuổi lớn thường di chuyển nhanh khi thấy động.

Rầy phấn phát triển mạnh trong mùa khô. Lây lan nhanh từ vườn này sang vườn khác. Mật độ trong mùa mưa giảm nhanh, tuy nhiên sẽ tăng mật số nhanh khi mùa khô đến. Cây bị hại nặng có lá thưa thớt, quăn queo, lá non rụng nhiều và khô ngọn. Cây không phát triển được tán dẫn đến ra hoa ít, đậu trái kém, trái bị sượng, phẩm chất kém. Rầy tiết nhiều chất mật được tạo điều kiện cho nấm bò hóng phát triển làm đen lá, trái.

Phòng trừ:

– Ngoài tự nhiên có nhiều loài thiên địch của rầy phấn như nhện, bọ rùa CoccinellaChrysopa sp., và ong ký sinh, do đó cần tạo điều kiện thuận lợi cho các loài thiên địch phát triển để khống chế rầy.

-Tưới đủ nước và bón phân thích hợp cho cây khỏe mạnh. Tăng cường bón phân hữu cơ. Ở miền Đông Nam bộ nên duy trì một lớp cỏ giữ ẩm trong mùa khô.

-Phun nước mạnh trên tán lá để hạn chế sự hoạt động của rầy.

-Sử dụng bẩy màu vàng để thu hút thành trùng.

-Phun thuốc khi thấy mật số rầy cao, có thể dùng các loại thuốc như Applaud, Basudin, Supracide, Bassa….

-Do rầy di chuyển nhanh nên việc phòng trừ cần thực hiện trên diện rộng.

-Sâu đục trái (Conogethes punctiferalis)

Gây hại khá phổ biến trên các vùng trồng sầu riêng ở nước ta. Ngoài gây hại trên sầu riêng, còn gây hại trên một số cây khác như nhãn, ổi, mãng cầu, chôm chôm… nên việc phòng trừ khó khăn.

Trứng được đẻ trên trái non, nở ra sâu non đục vỏ trái vào bên trong trái và tiếp tục đục cho đến thịt trái. Hóa nhộng ngay trên đường đục hoặc chui ra bên ngoài trái nhả tơ kết kén hóa nhộng trên mặt vỏ trái giữa các gai trái. Giai đoạn này kéo dài khoảng 7-8 ngày.

Trái mọc thành chùm thường bị gây hại ở phần tiếp giáp. Trái non bị hại dễ bị biến dạng và rụng sớm. Vết đục còn tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập gây thối trái. Do sâu có thể gây hại sớm nên phải bao trái sớm mới có hiệu quả.

Nhận diện sâu hại qua vết vết đục trên trái, quan sát phân sâu thải ra bên ngoài vết đục.

Phòng trừ:

Do sâu có nhiều ký chủ khác nhau mà thường được trồng cùng với nhau trong một khu vực nên phải chú trọng phòng trừ cho các vườn xung quanh. Theo kinh nghiệm của Thái lan, theo dõi trái hàng tuần để phát hiện sâu (quan sát 10% cây trong vườn , 5% trái trên cây và tỷ lệ trái bị sâu đục)

-Bao trái tỏ ra là một phương pháp hiệu quả nhiều mặt. Do trái sầu riêng to, số trái trên cây không nhiều nên tiến hành thuận lợi hơn. Có thể sử dụng túi bao chuyên dùng để báo trái.

-Trong tự nhiên có các thiên địch của sâu đục trái cần được bảo vệ và phát huy như bọ xít ăn mồi, nhện ăn thịt và kiến vàng….

-Tỉa trái để loại bỏ trái sâu và tiêu huỷ. Tỉa trái còn giúp hạn chế các trái mọc thành chùm dễ bị sâu tấn công.

-Ở Thái lan, khuyến cáo chỉ sử dụng thuốc khi có trên 10% trái bị nhiễm sâu. Khi sâu xâm nhập vào bên trong trái hiệu quả phun thuốc kém. Để khắc phục nhiều nông dân phun thuốc định kỳ 15 ngày lần. Việc sử dụng thuốc như thế gây quan ngại về sức khoẻ và môi trường.

-Sâu ăn bông

Bướm đẻ trứng trên chùm bông nở ra sâu non tấn công trên chùm bông. Sâu non ăn phá các phần non của bông làm hư hại hay rụng sớm. Do mật số sâu cao (mỗi bướm cái có thể đẻ từ 50-60 trứng) nên việc phá hại dễ gây thiệt hại đến năng suất mặc dù hoa rất nhiều. Bướm có màu vành nhạt dài 28-32 mm, sâu non có nhiều lông (dạng sâu róm), hoạt động mạnh. Ở Thái lan, sâu ăn bông được xếp là loại gây hại quan trọng.

Phòng trừ:

-Theo dõi định kỳ 2-3 ngày/lần giai đoạn trổ hoa. Phát hiện bướm, tìm diệt ổ trứng và sâu non. Khi sâu mới nở mẫn cảm cao với thuốc nên rất dễ phòng trừ. Thường sâu gây hại trên diện rộng nên cần quan sát tất cả các chùm hoa trên các cây.

-Phát huy vai trò của kiến vàng ngăn chặn và hạn chế sâu.

-Rầy nhảy: Lawana conpersa

Thuộc loài gây hại ít quan trọng tuy nhiên rầy nhảy có thể gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau như sầu riêng, cam quýt, ca cao, trà, cà phê, cây rừng và cây kiểng … Rầy trưởng thành và ấu trùng đều gây hại bằng cách chích hút trên đọt non, lá non, hoa làm cho cây chậm phát triển hoặc tạo điều kiện cho nấm bồ hóng gây hại.

Trưởng thành trông gần giống như bướm do khi đậu cánh rầy xếp dọc cơ thể như dạng mái nhà, trưởng thành có kích thước 14 mm toàn thân màu trắng, cánh màu trắng có nhiều chấm nâu đen. Trứng được đẻ trên đọt non, lá non, trứng đẻ cắm sâu vào gân lá. Ấu trùng được bao phủ 1 lớp như bông trắng.

Phòng trừ:

– Trong tự nhiên có một số loài nấm có thể gây hại đối với rầy được ghi nhận ở Malaysia làMetarhizium anisopliae var anisophiae đã làm giảm đáng kể mật số của rầy.

-Phun thuốc trừ các côn trùng chích hút cũng hạn chế được rầy nhảy.

-Rệp sáp (Pseudococcidae)

Rệp sáp gây hại trên cây sầu riêng có nhiều loài, Planococcus sp. thường thấy gây hại trên lá vàPseudococcus sp. thường thấy hại trên trái. Rệp sáp gây hại trên trái phổ biến hon trên cành lá.

Rệp bám trên bề mặt và chích hút chất dinh dưỡng làm cho bộ phận bị hại phát triển kém. Gây hại nghiêm trọng làm cho trái dễ bị sượng. Rệp sáp bài tiết chất mật đường tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển. Trái có rệp sáp và bồ hóng đều không hấp dẫn, khó tiêu thụ và giá bán giảm.

Rệp sáp phát triển mạnh trong mùa khô. Mùa khô cũng là mùa ra hoa kết trái sầu riêng nên trái dễ bị tấn công hơn.

Phòng trừ:

-Bao trái là biện pháp giúp hạn chế một số dịch hại trong đó có rệp sáp.

-Duy trì ẩm độ không quá thấp trong mùa khô bằng lớp phủ xanh trên mặt đất (cỏ phủ đất), bón nhiều phân hữu cơ, tủ đất bằng chất hữu cơ và tưới đủ nước cũng góp phần làm giảm rệp sáp trong mùa khô.

-Tưới phun trên tán tạo ẩm cũng hạn chế được rệp sáp.

-Nhiều thiên địch có sẳn trong thiên nhiên có thể hạn chế rệp sáp như Bọ rùa và Ong ký sinh cần duy trì và phát huy vai trò của chúng.

-Chỉ phun thuốc trong trường hợp cần thiết. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng với thiên địch (dầu khoáng DC -Tron Plus, thuốc trừ rệp có nguồn gốc sinh học, thuốc ít độc….).

-Tỉa bỏ những bộ phận bị hại nặng và tiêu huỷ. Tỉa bỏ trái mọc từng chùm hoặc mọc gần nhau tạo chổ ẩn trú của rệp sáp.

-Bọ trĩ

Bọ trĩ gây hại khá phổ biến trên một số vườn sầu riêng ở miền Đông Nam bộ trong mùa khô. Ở ĐBSCL bọ trĩ ít phổ biến hơn có thể do ẩm độ trong vườn cao hơn trong mùa khô so với miền Đông Nam bộ.

Bọ trĩ có kích thước rất nhỏ, nhưng có thể quan sát dễ dàng dưới kính lúp. Bọ trĩ tấn công lá non cho đến khi lá gần trưởng thành. Chích hút chất dinh dưỡng trong lá làm cho phát triển kém. Lá bị tấn công có màu sáng bạc, ít thấy màu xanh. Kích thước lá có thể giảm, lá có thể bị biến dạng trong trường hợp nghiêm trọng. Bọ trĩ cũng tạo điều kiện cho nấm bò hóng phát triển làm đen lá, trái. Mặc dù không gây chết cây nhưng cây sinh trưởng phát triển kém làm cho ra hoa đậu quả kém, trái nhỏ, chất lượng giảm.

Phòng trừ

-Duy trì ẩm độ không quá thấp trong mùa khô bằng lớp phủ xanh trên mặt đất (cỏ phủ đất), bón nhiều phân hữu cơ và tủ đất bằng chất hữu cơ trong mùa khô, tưới đủ nước cho cây cũng là biện pháp giảm được rệp sáp trong mùa khô ở miền Đông Nam bộ.

-Dùng vòi nước mạnh tưới lên cây hoặc áp dụng kỹ thuật tưới phun trên tán trong mùa khô kết hợp tưới nước cũng giúp hạn chế dịch hại.

-Chỉ phun thuốc trong trường hợp cần thiết. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng với thiên địch (dầu khoáng DC -Tron Plus, thuốc bột lưu huỳnh….), phun Bordeaux trừ bệnh cũng góp phần làm giảm rệp.

-Tỉa bỏ những bộ phận bị hại nặng và tiêu huỷ. Tỉa cành tạo tán thông thoáng hạn chế chổ trú ẩn của bọ trĩ.

-Một số dịch hại khác

Ngoài ra trên cây sầu riêng cũng có một số dịch hại khác như bọ cánh cứng ăn lá, sâu đục cành, sâu ăn lá, nhện, sâu ăn lá.….Việc phòng trừ các sâu hại quan trọng cũng góp phần hạn chế các dịch hại này.

Một số bệnh hại chính trên cây sầu riêng

-Bệnh thối vỏ chảy nhựa (bệnh Phytophthora) do nấm Phytophthora palmivora

Đây là bệnh quan trọng nhất trên cây sầu riêng không chỉ ở nước ta mà còn trên khắp vùng trồng sầu riêng trên thế giới. Nấm Phytophthora palmivora ngoài tấn công trên vỏ thân gây triệu chứng thối vỏ chảy nhựa còn gây hại trên lá gây triệu chứng cháy lá, trên quả gây thối quả, trên rễ gây thối rễ, trên ngọn non gây hiện tượng chết ngọn. Trong đó, triệu chứng thối vỏ chảy nhựa là quan trọng nhất.

Trên vỏ thân bệnh khó phát hiện sớm mãi đến khi thấy hiện tượng chảy nhựa (mủ) từ vết loét do nấm gây ra. Nếu phát hiện sớm vết loét còn nhỏ, việc phòng trừ nhanh và hiệu quả. Nếu phát hiện muộn, vết loét lan rộng, nhiều vết loét liên kết với nhau làm cho vỏ cây bị huỷ hoại việc phòng trừ sẽ tốn kém, vết bệnh lâu lành, cây suy yếu. Nếu không phòng trừ, cây có thể chết khi nước và chất dinh dưỡng không được chuyển lên cây.

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Tư vấn khách hàng: 0905 984 646
Gọi mua hàng: 0907 984 646
Tư vấn khách hàng
Gọi mua hàng